Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp

Hồ sơ hành chính 12 - Nguyễn Thị Tuyết - Lớp Luật sư Học viện tư pháp

Blog Thừa phát lại - Hộ bà Nguyễn Thị Tuyết cư ngụ tại tổ 9, phường Đông Lân, TP. P, tỉnh GL kinh doanh dịch vụ nhà trọ bình dân, có đăng ký phù hợp quy định pháp luật căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số 39A8005684 ngày 19/11/2012 do Phòng Tài chính – Kế hoạch thuộc UBND TP.P cấp.

Vào lúc 21h10’ ngày 23/12/2013, Đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL đến kiểm tra cơ sở kinh doanh của bà Nguyễn Thị Tuyết tại số 241 đường Lê Lai, TP. P, tỉnh GL. Tại thời điểm kiểm tra, có ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành không xuất trình được Giấy đăng ký kết hôn, đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục) tại phòng 11; ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có Giấy kết hôn đang ở chung phòng xem ti vi tại phòng 9. Ông Thường và bà Lành có lập Bản tường trình đề ngày 23/12/2013 có nội dung là ông Thường đang công tác tại Trung đoàn X-GL có thuê trọ tại nhà nghỉ Hoàng Lan để ở cùng với vợ là bà Lành, làm việc tại thị trấn D.C xuống thăm chồng. Ông Văn và bà Thùy lập Bản tường trình có nội dung bà Thùy thuê phòng còn ông Văn tới chơi rồi về; ông Văn và bà Thùy đã làm đám hỏi, bà Thùy đã có thai, chuẩn bị cưới nhưng do ông ngoại chết nên đình lại.

Đoàn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 có nội dung: “Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan, phòng số 11 có ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành không có giấy kết hôn, đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục); phòng số 9 có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có Giấy kết hôn đang ở chung phòng xem ti vi. Vào thời điểm kiểm tra tại phòng số 11, chủ cơ sở kinh doanh không vào sổ bà Nguyễn Thị Lợi. Kết luận: Chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy hành vi vi phạm như trên”.

Căn cứ Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013, Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 có nội dung xử phạt bà Nguyễn Thị Tuyết 15.000.000 đồng đối với hành vi “thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm theo khoản 1 Điều 25 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ”.

Không đồng ý với nội dung Quyết định số 23 nêu trên, bà Tuyết đã khiếu nại đến Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL và cơ quan này đã ban hành Quyết định số 01/QĐ-TTr ngày 20/4/2014 về việc giải quyết đơn khiếu nại xử phạt vi phạm hành chính (lần đầu) có nội dung không chấp nhận khiếu nại của bà Tuyết, giữ nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014.

Sau đó, bà Tuyết đã khởi kiện vụ án hành chính đến Tòa án nhân dân tỉnh GL yêu cầu Tòa án hủy bỏ Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.

1.            Yêu cầu của khách hàng

Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh GL tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.

PHẦN II:  KẾ HOẠCH HỎI CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA

Tư cách tham gia xét hỏi: Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Tuyết.

Định hướng bảo vệ: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện, tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.

Định hướng, mục đích hỏi: Để chứng minh Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL là trái quy định pháp luật.

1.            Hỏi người bị kiện

1.1        Ông Minh cho Hội đồng xét xử biết ông có trực tiếp có mặt kiểm tra cơ sở nhà bà Tuyết ngày 23/12/2013 không?

.........................................................................................................................................................

1.2        Việc kiểm tra cơ sở nhà bà Tuyết là đột xuất hay theo định kỳ?

.........................................................................................................................................................

1.3        Tại buổi kiểm tra, đoàn kiểm tra có yêu cầu ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành viết bản tường trình không?

.........................................................................................................................................................

1.4        Có phải trong Bản tường trình, ông Thường và bà Lành khai là vợ chồng đúng không?

.........................................................................................................................................................

1.5        Tại Bản tường trình, ông Thường khai là đang công tác tại Trung đoàn X-GL đúng không?

.........................................................................................................................................................

1.6        Ông có xác minh tình trạng hôn nhân của ông Thường và bà Lành tại Trung đoàn X-GL trước khi ban hành quyết định xử phạt không?

.........................................................................................................................................................

1.7        Đoàn kiểm tra có thu thập được chứng cứ ông Thường và bà Lành có trao đổi tiền, lợi ích vật chất để quan hệ tình dục không?

.........................................................................................................................................................

1.8        Tại buổi kiểm tra, đoàn kiểm tra có yêu cầu ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy viết bản tường trình không?

.........................................................................................................................................................

1.9        Ông Văn và bà Thùy khai trong Bản tường trình là họ đã làm đám hỏi, bà Thùy đã có thai nhưng do ông ngoại chết nên phải đình lại đám cưới, đúng không?

.........................................................................................................................................................

1.10    Ông có xác minh tình trạng hôn nhân của ông Văn, bà Thùy tại địa phương họ trước khi ban hành quyết định xử phạt không?

.........................................................................................................................................................

1.11    Nam nữ thuê nhà trọ nghỉ có bắt buộc xuất trình giấy đăng ký kết hôn cho chủ cơ sở  hay không? Nếu có thì được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nào?

.........................................................................................................................................................

1.12    Việc bố trí phòng nghỉ nam riêng, nữ riêng tại cơ sở lưu trú có phải là quy định bắt buộc không? Nếu có thì được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nào?

.........................................................................................................................................................

1.13    Khi ban hành Quyết định số 23/QĐ-XP, ông có căn cứ Nghị định 67/2013/NĐ-CP để giải quyết không?

.........................................................................................................................................................

2.            Hỏi người khởi kiện

2.1        Hộ của bà có giấy phép kinh doanh nhà trọ được cơ quan có thẩm quyền cấp không?

.........................................................................................................................................................

2.2        Ngày nào thì bà nhận được Quyết định số 23/QĐ-XP?

.........................................................................................................................................................

2.3        Khi khách vào thuê trọ, bà có yêu cầu khách hàng xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu không?

.........................................................................................................................................................

2.4        Trong quá trình kinh doanh, bà có giải pháp nào để phòng ngừa hoạt động mại dâm diễn ra tại cơ sở lưu trú của mình không?

.........................................................................................................................................................

2.5        Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 có gây thiệt hại cho cơ sở kinh doanh của bà không?

.........................................................................................................................................................

2.6        Bà có yêu cầu Bên bị kiện bồi thường thiệt hại gì không?

.........................................................................................................................................................

 

PHẦN III: LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP

CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN

 

Kính thưa Hội đồng xét xử và vị đại diện Viện Kiểm sát!

Thưa các Luật sư đồng nghiệp.

Tôi Luật sư .................. – Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Hoài Đức, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh, tham gia phiên tòa ngày hôm nay với vai trò là Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Tuyết, là người khởi kiện Quyết định xử phạt vi pham hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.

Thưa Hội đồng xét xử!

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua phần hỏi đáp tranh tụng công khai tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, tôi xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền lợi người khởi kiện như sau:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa ngày hôm nay thì đã thể hiện rõ diễn biễn, tình tiết của vụ án. Do đó, tôi xin phép không tóm tắt lại nội dung vụ án.

1. Xác định điều kiện khởi kiện

Về đối tượng khởi kiện, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh GL là quyết định hành chính thuộc đối tượng khiếu kiện hành chính theo khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

Về quyền khởi kiện, bà Tuyết là đối tượng bị xử phạt theo quyết định hành chính nhưng không đồng ý nên có quyền khiếu kiện hành chính với tư cách là người khởi kiện theo quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

Về người bị kiện, Chánh Thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh GL là người ban hành quyết định hành chính bị khởi kiện nên phải tham gia phiên tòa với tư cách người bị kiện theo khoản 9 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

Về thời hiệu khởi kiện, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành ngày 10/3/2014; bà Tuyết nộp đơn khởi kiện ngày 02/05/2014. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì bà Tuyết khởi kiện vụ án hành chính trong thời hiệu khởi kiện.

Về tòa án có thẩm quyền, căn cứ Điều 30, khoản 2 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh GL.

Do đó, việc Tòa án nhân dân tỉnh GL thụ lý vụ án hành chính theo đơn khởi kiện của bà Tuyết là phù hợp các quy định tại Luật tố tụng hành chính năm 2015.

2. Về nội dung

Bà Tuyết yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh GL tuyên hủy bỏ Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL là hoàn toàn có cơ sở bởi Quyết định này có những vi phạm như sau:

Thứ nhất, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành quá thời hạn quy định.

Thời điểm lập Biên bản vi phạm hành chính (23/12/2013) đến khi ban hành Quyết định xử phạt (10/3/2014) tổng cộng là 77 ngày. Căn cứ khoản 1 Điều 66, điểm c khoản 1 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính tối đa là 60 ngày (kể cả thời gian gia hạn) tính từ thời điểm lập Biên bản vi phạm hành chính; quá thời hạn này thì không được ban hành quyết định xử phạt. Do đó, việc ban hành quyết định xử phát trong trường hợp này là đã quá hạn và thuộc trường hợp không được ban hành quyết định xử phạt.

Thứ hai, người bị kiện áp dụng sai văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành Quyết định số 23/QĐ-XP.

Trong Quyết định số 23/QĐ-XP và tại phiên tòa ngày hôm nay, người bị kiện thừa nhận rằng đã áp dụng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP để xử lý hành vi của bà Tuyết. Theo quy định tại khoản 1 Điều 72 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 28/12/2013 nhưng hành vi của bà Tuyết xảy ra trước đó tức vào ngày 23/12/2013.

Căn cứ khoản 1 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì “Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó”.

Tại thời điểm xảy ra hành vi của bà Tuyết thì Nghị định số 73/2010/NĐ-CP đang có hiệu lực áp dụng. Căn cứ Điều 73 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì Nghị định này chỉ được áp dụng hồi tố nếu có các quy định có lợi cho người vi phạm. Giả thiết là hành vi của bà Tuyết là có vi phạm thì căn cứ điểm đ khoản 3 Điều 14 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP, bà Tuyết chỉ bị xem xét phạt tiền từ 5.000.0000 đồng đến 15.000.000 đồng nhưng căn cứ Điều 25 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì bà Tuyết bị xem xét phạt tiền mức khởi điểm là từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Do đó, Nghị định số 73/2010/NĐ-CP đương nhiên được áp dụng để xem xét hành vi của bà Tuyết mà không phải là Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.

Như vậy, người bị kiện đã áp dụng sai văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành quyết định xử phạt hành chính.

Thứ ba, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành để xử phạt hành vi không xảy ra.

Quyết định số 23/QĐ-XP căn cứ Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 để xử phạt bà Tuyết hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm. Căn cứ khoản 1, 2, 3 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 thì mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm, là có sự trao đổi tiền bạc, lợi ích vật chất khác để quan hệ tình dục.  Tuy nhiên, theo nội dung Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC, Đoàn kiểm tra không ghi nhận có hành vi mua dâm, bán dâm tại nhà trọ bà Tuyết tại thời điểm kiểm tra. Như vậy, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành để xử phạt một hành vi không được ghi nhận tại Biên bản vi phạm hành chính hay nói cách khác là không xảy ra trên thực tế.

Tại Biên bản lời khai ngày 18/6/2014 thì đại diện của người bị kiện viện dẫn Thông tư 33/2010/TT-BCA và cho rằng cơ sở cho thuê lưu trú phải bố trí phòng nghỉ nam riêng, nữ riêng trừ trường hợp là vợ chồng. Tuy nhiên, căn cứ điểm e khoản 2 Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA ngày 05/10/2010 thì không có quy định việc phải bố trí phòng nghỉ nam riêng, nữ riêng như trên. Ngoài ra, điểm e khoản 2 Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA cũng chỉ yêu cầu “Người đến lưu trú có trách nhiệm xuất trình một trong các loại giấy tờ sau: Chứng minh nhân dân; Hộ chiếu; các loại giấy tờ có dán ảnh do các cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam cấp; giấy xác nhận cử đi công tác của cơ quan, tổ chức; xác nhận của cơ quan đến liên hệ công tác; xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.”.

Như vậy, pháp luật không buộc các cơ sở kinh doanh lưu trú như hộ bà Tuyết phải bố trí phòng nghỉ nam riêng, nữ riêng. Ngoài ra, khi bố trí nam và nữ ở chung thì cũng không quy định việc xuất trình giấy chứng nhận đăng ký kết hôn mới được ở chung phòng.

Thứ tư, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành trái thẩm quyền

Hành vi bị xử phạt tại Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 là áp dụng khoản 1 Điều 25 Mục 2 Chương II Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013. Tuy nhiên, căn cứ Điều 69 của Nghị định này thì Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ có thẩm quyền xử phạt đối với những hành vi quy định tại Mục 4 Chương II của Nghị định này. Như vậy, Quyết định này đã được ban hành không đúng thẩm quyền.

Từ những phân tích nêu trên, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015 chấp thuận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Tuyết, tuyên huỷ toàn bộ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh GL.

Trên đây là quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người khởi kiện bà Nguyễn Thị Tuyết. Kính mong Hội đồng xét xử quan tâm xem xét để có phán quyết công minh. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Trân trọng!

Link tải hồ sơ: Tại đây (xem trong phần mô tả video)

Xin chào! Tôi là Đức Hoài - một Thừa phát lại. Do đây là một trang blog nên tôi cố gắng sử dụng các từ ngữ đơn giản, dễ hiểu trong các bài viết và không nhất thiết phải giống với thuật ngữ khoa học pháp lý, văn bản pháp luật. Bài viết dựa trên quan điểm cá nhân của tác giả hoặc tổng hợp từ các nguồn tin tức đã được dẫn chiếu trong bài viết. Nếu bạn cần thêm thông tin hoặc sử dụng dịch vụ Thừa phát lại, xin vui lòng liên hệ theo SĐT 0906 311 132 hoặc email blogthuaphatlai@gmail.com. Xin cảm ơn!

Đăng nhận xét

0 Nhận xét

Liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *